Đồ hình Hà Đồ
1-6 là thủy phương bắc
2-7 là hỏa phương nam
3-8 là mộc phương đông
4-9 là kim phương tây
5-10 là thổ đóng trung ươngLẠC THƯ
Đội 9 đạp 1, trái 3 phải 7, 2-4 là vai, 6-8 là chân 5 ở trung cung.
THỨ TỰ TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
"Hệ từ truyện" nói rằng: " Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh bát quái.
Thái Cực là âm dương chưa phân, vũ trụ còn thời kỳ hỗn độn. Gọi là thái cực vì bao la đến vô cùng, vô tận. Vật cùng tất biến, cho nên thái cực tất sẽ phân hóa thành âm dương, hình thành trời đất, hoặc bản thân thiên thể có cả âm dương.
Phân âm dương là thành lưỡng nghi. Lưỡng nghi tức là trời và đất. Lấy Dương (___) thay cho trời, lấy Âm (_ _) thay cho đất. Hào âm, hào dương chính là kí hiệu cơ bản nhất cho bát quái.
Lưỡng nghi sinh tứ tượng, tức là âm dương trùng nhau, âm dương giao nhau mà thành. Tứ Tượng sinh bát quái thực tế vẫn là âm dương trùng hợp mà thành.
Thiệu Ung nói Rằng: " Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8. Càn Đoài là Thái Dương, Cấn Không là Thái Âm, Tốn Khảm là Thiếu Dương, Ly Chấn là Thiếu Âm.
THỨ TỰ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Hậu thiên bát quái do Văn Vương khi bị giam trong ngục mới diễn lại các quẻ mà thành. Ông đặt ra thoán từ cho mỗi quẻ, để giải thích cát hung, tốt xấu. Đến đời con ông là Chu Công lại cắt nghĩa từng hảo, ý nghĩ sâu xa khó hiểu.
Hậu thiên bát quái thực tế là dựa theo phương vị các quẻ trong câu sau đây trong phần thuyết quái: " Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, chí dịch hồ không, duyệt ngôn hồ đoài, chiến hồ kiền, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn" .
Câu văn trên chỉ sự vận hành của thái dương, cũng có nghĩa là sự vận hành của vũ trụ:
Đế xuất hồ chấn: vũ trụ bắt đầu bằng quẻ chấn ( Chấn tức động, chuyển động) vụ trụ hình thành bằng việc chuyển động mà ra. Chấn là phương đông, lệnh của tháng 2 mùa xuân. Nguyên khí từ Đông, khởi đầu cho chu trình của vạn vật. Lúc này dương khí mới bắt đầu cho nên một dương ở dưới 2 âm.
Tề hồ Tốn: Khi vận hành đến tốn vạn vật đã đầy đủ, hưng vượng, Tốn là phương đông nam, lệnh của tháng 3, 4. Nguyên khí đã phân phối cho vạn vật.
Tương kiến hồ Ly: Tượng trong ngày, ánh sáng rực rỡ, mọi vật đều thấy rõ. Ly là tượng của tháng 5.
Chí dịch hồ Khôn: Không là đất, Đất nuôi dưỡng vạn vật, không thuộc phương Tây Nam, Nguyên khí đã vận hành được nửa chu kì, đây là thời kì vạn vật phát triển đầy đủ. Thuộc lệnh tháng 6, 7.
Duyệt ngôn hồ Đoài: Thuộc phương tây, lệnh tháng 8 chính thu. Khi khí âm bắt đầu hình thành. Dương khí tính hướng lên trên, âm khí giáng xuống cho nên một hào âm trên 2 hào dương.
Chiến hồ kiền: Thuộc phương tây bắc lệnh tháng 9, 10. Khi mặt trời đã xuống chân phía tây. Thời khắc ứng với vạn vật tranh sáng tranh tối, âm dương tranh đấu.
Lao hồ khảm: Khi vụ trụ tới khám, mặt trời đã lặn, vạn vật mệt mòi đều quy về đây. Thuộc phương bắc, lệnh tháng 11.
Thành ngôn hồ cấn: Cấn tức là dừng lại, Vũ trụ vận hành đến đây hết một chu kì. Thuộc đông nam, lệnh tháng 12 và 1 tức là giao thời của Đông và xuân.
Hậu thiên bát quái thực tế là dựa theo phương vị các quẻ trong câu sau đây trong phần thuyết quái: " Đế xuất hồ chấn, tề hồ tốn, tương kiến hồ ly, chí dịch hồ không, duyệt ngôn hồ đoài, chiến hồ kiền, lao hồ khảm, thành ngôn hồ cấn" .
Câu văn trên chỉ sự vận hành của thái dương, cũng có nghĩa là sự vận hành của vũ trụ:
Đế xuất hồ chấn: vũ trụ bắt đầu bằng quẻ chấn ( Chấn tức động, chuyển động) vụ trụ hình thành bằng việc chuyển động mà ra. Chấn là phương đông, lệnh của tháng 2 mùa xuân. Nguyên khí từ Đông, khởi đầu cho chu trình của vạn vật. Lúc này dương khí mới bắt đầu cho nên một dương ở dưới 2 âm.
Tề hồ Tốn: Khi vận hành đến tốn vạn vật đã đầy đủ, hưng vượng, Tốn là phương đông nam, lệnh của tháng 3, 4. Nguyên khí đã phân phối cho vạn vật.
Tương kiến hồ Ly: Tượng trong ngày, ánh sáng rực rỡ, mọi vật đều thấy rõ. Ly là tượng của tháng 5.
Chí dịch hồ Khôn: Không là đất, Đất nuôi dưỡng vạn vật, không thuộc phương Tây Nam, Nguyên khí đã vận hành được nửa chu kì, đây là thời kì vạn vật phát triển đầy đủ. Thuộc lệnh tháng 6, 7.
Duyệt ngôn hồ Đoài: Thuộc phương tây, lệnh tháng 8 chính thu. Khi khí âm bắt đầu hình thành. Dương khí tính hướng lên trên, âm khí giáng xuống cho nên một hào âm trên 2 hào dương.
Chiến hồ kiền: Thuộc phương tây bắc lệnh tháng 9, 10. Khi mặt trời đã xuống chân phía tây. Thời khắc ứng với vạn vật tranh sáng tranh tối, âm dương tranh đấu.
Lao hồ khảm: Khi vụ trụ tới khám, mặt trời đã lặn, vạn vật mệt mòi đều quy về đây. Thuộc phương bắc, lệnh tháng 11.
Thành ngôn hồ cấn: Cấn tức là dừng lại, Vũ trụ vận hành đến đây hết một chu kì. Thuộc đông nam, lệnh tháng 12 và 1 tức là giao thời của Đông và xuân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét